Skip to main content

Máy đo phóng xạ - Wikipedia


Một ví dụ về máy đo phóng xạ Crookes. Các van quay khi tiếp xúc với ánh sáng, với tốc độ quay nhanh hơn cho ánh sáng mạnh hơn, cung cấp một phép đo định lượng về cường độ bức xạ điện từ.

Máy đo phóng xạ [19454599] hoặc là một thiết bị để đo thông lượng bức xạ (sức mạnh) của bức xạ điện từ. Thông thường, máy đo phóng xạ là máy dò bức xạ hồng ngoại hoặc máy dò tia cực tím. [1] Máy đo phóng xạ vi sóng hoạt động theo bước sóng vi sóng.

Trong khi thuật ngữ máy đo phóng xạ có thể chỉ bất kỳ thiết bị nào đo bức xạ điện từ (ví dụ như ánh sáng), thuật ngữ này thường được sử dụng để chỉ một máy đo phóng xạ Crookes ("máy nghiền ánh sáng"), một thiết bị được phát minh vào năm 1873, trong đó một cánh quạt (có các van bị tối ở một bên và ánh sáng ở phía bên kia) trong một vòng chân không một phần khi tiếp xúc với ánh sáng. Một niềm tin phổ biến (ban đầu được tổ chức bởi Crookes) là động lượng của ánh sáng hấp thụ trên các mặt đen làm cho máy đo phóng xạ hoạt động. Tuy nhiên, nếu điều này là đúng, thì máy đo phóng xạ sẽ quay ra khỏi các mặt không phải màu đen, vì các photon bật ra khỏi các mặt đó tạo ra nhiều động lượng hơn các photon hấp thụ trên các mặt đen. Các photon gây áp lực bức xạ lên mặt, nhưng các lực đó bị lấn át bởi các hiệu ứng khác. Giải thích hiện đang được chấp nhận phụ thuộc vào việc có độ chân không phù hợp và liên quan đến sự truyền nhiệt hơn là tác động trực tiếp của photon. [2] [3]

Máy đo phóng xạ của Nichols thể hiện áp suất photon. Nó nhạy hơn nhiều so với máy đo phóng xạ Crookes và nó hoạt động trong môi trường chân không hoàn toàn, trong khi hoạt động của máy đo phóng xạ Crookes cần một khoảng chân không hoàn hảo.

Máy đo phóng xạ MEMS, được phát minh bởi Patrick Jankowiak, có thể hoạt động dựa trên các nguyên lý của Nichols hoặc Crookes và có thể hoạt động trên một phổ rộng của các mức bước sóng và năng lượng hạt. [4]

Xem thêm chỉnh sửa ]]

Tài liệu tham khảo [ chỉnh sửa ]

Liên kết ngoài [ chỉnh sửa ]


visit site
site

Comments

Popular posts from this blog

Hưu hướng Như Lai – Wikipedia tiếng Việt

Hưu hướng Như Lai (chữ Hán: 休向如來) là một bài thơ thiền nổi tiếng của Quảng Nghiêm thiền sư, sáng tác vào khoảng thời nhà Lý (Việt Nam). 離寂方言寂滅去, 生無生后說無生。 男兒自有衝天志, 休向如來行處行。 Li tịch phương ngôn tịch diệt khứ, Sinh vô sinh hậu thuyết vô sinh. Nam nhi tự hữu xung thiên chí, Hưu hướng Như Lai hành xứ hành. Bản dịch [2] : Đừng theo bước Như Lai Thoát tịch rồi bàn câu tịch diệt Sau vô sinh hãy nói vô sinh Nam nhi tự có chí xông trời Theo gót Như Lai bước từng bước. Bản dịch của Ngô Tất Tố: [3] : Thoát kiếp rồi bàn câu tịch diệt Không sinh hãy nói chuyện siêu sinh Tài trai có chí xông trời thẳm Giẫm vết Như Lai luống nhọc mình Dịch nghĩa : Xa lìa sự ham muốn mới có thể bàn chuyện đi vào tịch diệt [4] Sinh vào cõi vô sinh rồi mới có thể bàn chuyện vô sinh Làm trai phải tự có chí xông trời thẳm Đừng dẫm theo vết chân của Như Lai. Câu cuối hưu (休) nếu là hựu thì câu thơ có nghĩa là: "Lại hướng theo Như Lai làm chỗ làm". Có bản hai câu đầu là: Li tịch phương ngôn tịch diệt Khứ sinh hậu

Chủng tộc và quốc gia của Warhammer Fantasy

Trong bối cảnh giả tưởng Warhammer Fantasy của Games Workshop, có một số chủng tộc và quốc gia khác nhau. Điều quan trọng nhất trong số các tính năng này là các đội quân riêng lẻ trong trò chơi hàng đầu trong bảng Warhammer Fantasy Battle. Cõi đàn ông [ chỉnh sửa ] Tất cả các quốc gia nhân loại đặc trưng đều có trụ sở ở Thế giới cũ. Vương quốc Bretonnia [ chỉnh sửa ] Bretonnia dựa trên nước Pháp thời trung cổ trong thế giới thực; Tên của nó rõ ràng có nguồn gốc từ tỉnh Britanny của Pháp và nó rút ra rất nhiều từ những truyền thuyết Arthurian có liên quan đến thời trung cổ Brittany; ví dụ với The Lady và The Green Knight, cả hai đều có sự tương đồng với truyền thuyết Arthurian. Mặc dù ban đầu được cộng đồng Warhammer nhận là quá lý tưởng cho bầu không khí Warhammer, nhưng những cuốn sách nguồn tiếp theo đã tiết lộ sự kiêu ngạo tiềm ẩn của các hiệp sĩ Bretonnian và cách đối xử tàn nhẫn của họ đối với những công dân thấp hèn của họ. Bretonnia được thành lập khi Hiệp sĩ L

Ngô Thì Du – Wikipedia tiếng Việt

Ngô Thì Du (chữ Hán: 吳時悠, 1772-1840) là nhà văn và là quan nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ngô Thì Du tên tự là Trưng Phủ , hiệu là Văn Bác , sinh tại Nghệ An vào mùa xuân năm Nhâm Thìn (1772) khi cha ông mang theo gia đình vào trấn nhậm ở đó. Tuy nhiên quê gốc của ông là làng Tả Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội). Ông là con của danh sĩ Ngô Thì Đạo (em Ngô Thì Sĩ) với người vợ thứ. Mặc dù siêng học và học giỏi, nhưng ông không đỗ đạt. Năm 1788, khi Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc lần thứ hai, ông theo cha chạy về huyện Kim Bảng (Hà Nam), rồi Nam Chân (Nam Định) và nhiều nơi khác nữa. Mãi đến 8 năm sau, ông mới trở lại quê (làng Tả Thanh Oai) dựng nhà làm ruộng. Năm 1802, sau khi cha mất và chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy hiệu là Gia Long, ông rời làng chạy về bên nhà thông gia. Khi ông đã ngoài 40 tuổi, gặp lúc triều đình nhà Nguyễn ban chiếu cầu người tài ra giúp nước, thấy ông là người giỏi nhưng nghèo, bạn bè khuyên ông ra làm quan. Sau khi viên trấn thầ